Nguồn bài này:
http://vinacamera.com/?p=329
Trong bài viết này, VinaCamera.com
giới thiệu các khái niệm cơ bản trong nhiếp ảnh và ảnh số (Basic
concepts in photography and digital photography). Bài viết sẽ thường
xuyên được bổ sung và cập nhật. Để các bạn tiện theo dõi trên máy ảnh
số hiện chưa được Việt hóa, VinaCamera.com sẽ giải thích kèm các thuật ngữ tiếng Anh.
Cửa chập (shutter):
Là
mành chắn được đóng mở cho phép ánh sáng lọt qua để đi tới phim hay
bộ cảm biến khi bấm máy chụp. Khoảng thời gian mành mở để ánh sáng lọt
(qua mành) vào phim hay bộ cảm biến nhận ánh sáng đối với máy ảnh số –
cũng chính là thời gian phơi sáng của phim hay bộ cảm biến (exposure
time) – được điều chỉnh bởi tốc độ cửa chập (shutter speed) và thường
được tính bằng giây và phần của giây, ví dụ 1 giây, 1/60 (một phần 60
của giây), 1/3200 (một phần 3200 của giây). Tốc độ cửa chập càng nhanh
cho phép chụp được các đối tượng di chuyển nhanh mà không bị nhòe hình
do “dừng” được hình ảnh trong một khoảnh khắc rất nhỏ, ví dụ để
“dừng” được chuyển động của một con chim đang bay, tốc độ cửa chập
phải đạt được tối thiểu từ 1/1250 đến 1/1600 giây mới đảm bảo không bị
nhòe. Tốc độ cửa chập càng nhanh đòi hỏi ánh sáng càng mạnh mới đảm
bảo ảnh không bị quá tối.
Khẩu độ mở (apature):
Là
lỗ lọt sáng nằm trên ống kính của máy ảnh. Độ to nhỏ của khẩu độ được
điều chỉnh bằng thông số f (f-number), ví dụ f/2.8 hay f/32, và phụ
thuộc khả năng của ống kính. Các khẩu độ phổ biến gồm f/1.4, f/2, f/2.8,
f/4, f/5.6, f/8, f/11, f/16, and f/22. Lưu ý: thông số f này càng nhỏ
thì độ mở của lỗ lọt sáng càng lớn, ví dụ f/5.6 cho lỗ lọt sáng lớn
hơn so với f/8, như vậy, f/5.6 cho nhiều ánh sáng lọt qua hơn so với
f/8 – đây là cánh tính hay làm nhiều người nhầm lẫn về khẩu độ mở. Các
ống kính càng tốt (và càng đắt tiền do đòi hỏi công nghệ sản xuất cao
hơn) cho phép mở khẩu độ càng to, hiện nay hãng Leica đã sản xuất ống
kính thông thường với độ mở lên tới f/0.95. Khẩu độ mở to (thông số f
nhỏ) cho phép ánh sáng lọt vào phim nay bộ cảm biến nhiều hơn, tạo
khả năng tăng tốc độ cửa chập (shutter speed) giúp đảm bảo hình không
bị nhòe (do rung tay hay vật chuyển động), nhất là trong các môi
trường ánh sáng yếu mà vẫn bảo đảm ánh sáng của ảnh. Tuy nhiên, khẩu
độ mở còn chi phối chiều sâu của ảnh (depth of field): Khẩu độ mở càng
to càng làm giảm chiều sâu của ảnh.
Căn nét / lấy nét (focus):
Điều
chỉnh ống kính (nhiều khi là cả vị trí của máy ảnh) để căn chỉnh tạo
hình ảnh sắc nét trên phim hay bộ cảm biến. Ở một số máy ảnh, khi điều
chỉnh, vị trí của phim hay bộ cảm biển cũng di chuyển để tạo độ nét.
Lưu ý: có nhiều người còn gọi việc này là “canh nét”.
Tiêu điểm (focal point):
Là
điểm trên trục quang học (của ống kính) ở đó các tia sáng (sau khi đã
đi qua các thấu kính) tạo thành hình ảnh sắc nét của đối tượng được
chụp ảnh. Việc điều chỉnh ống kính (và vị trí của máy ảnh) để hình ảnh
sắc nét nằm trên phim hay bộ cảm biến gọi là lấy/căn/canh nét.
Tiêu cự (focal length):
Khoảng
cách giữa bề mặt của phim (hay bộ cảm biến nhận sáng ở máy ảnh số)
tới trung tâm quang học của ống kính (gồm hệ thấu kính). Tiêu cự
thường được tính bằng milimet (mm) và được ghi trên ống kính. Đối với
định dạng phim (kích cỡ cảm biến toàn khổ) 35mm, tiêu cự ở 50mm được coi
là tiêu chuẩn (normal, thường được đọc là nóc-man – ở tiêu cự này
hình ảnh qua ống kính sát thực với hình ảnh nhìn thông thường qua mắt
người nhất, và cho độ chính xác cao nhất). Các tiêu cự ngắn hơn 50mm
được gọi là góc rộng (wide) và các tiêu cự dài hơn 50mm có thể được
gọi là lớn hay tê-lê (tele). Ở cùng một khoảng cách giữa máy ảnh và
đối tượng cần chụp, ống kính góc rộng cho hình ảnh rộng hơn (phù hợp
với chụp một nhóm người hay toàn cảnh trong nhà, v.v…) còn ống tele
giúp chụp được đối tượng to hơn trong ảnh. Ghi chú: Việc sản xuất các
ống tele có khẩu độ mở lớn (f-number nhỏ) đòi hỏi kỹ thuật cao, nên
các ống kính này rất đắt).
Ống phóng và ống cố định (zoom lens & fixed lens):
Các
ống kính có khả năng thay đổi tiêu cự gần xa được gọi là các ống
zoom. Các ống chỉ có một tiêu cự duy nhất gọi là ống cố định (fixed lens
/ prime lens). Các chỉ số này thường được ghi trên trên ống kính hoặc
trên thân máy (máy liền ống kính) với chỉ số tiêu cự nhỏ nhất tới lớn
nhất kèm ký hiệu X (đọc là nhân), ví dụ 17-50mm, 18-135mm hay 12x.
Ghi chú: Thuật ngữ tiếng Việt “phóng” và “cố định” ở đây chỉ được dùng
để giải thích; trên thực tế ở Việt Nam, người chơi ảnh thường sử dụng
thuật ngữ vay mượn trong tiếng Anh và gọi là ống zoom (đọc là dum) và
ống fixed (đọc là phích).
Tỷ lệ phóng quang học và kỹ thuật số (optical zoom & digital zoom):
Tỷ
lệ phóng quang học (optical zoom) là khả năng phóng to hay thu nhỏ
hình ảnh đối tượng được chụp ở cùng một khoảng cách từ máy ảnh tới đối
tượng trên ảnh chụp được tạo ra qua điều chỉnh ống kính (hệ thống thấu
kính bên trong ống kính). Đối với các máy ảnh số, việc phóng to thu
nhỏ này còn có thể được thực hiện bằng cách sử dụng tính năng zoom kỹ
thuật số (digital zoom) để phóng to một phần hình ảnh thu nhận được
qua ống kính sao cho bằng với kích thước toàn bộ của khuôn hình. Tưởng
tượng đơn giản, bạn có một hình to bằng khổ giấy A4, bạn cắt lấy một
góc phần tư của ảnh và đem ra hàng photocopy phóng to lên gấp 4 lần sẽ
được một hình to bằng khổ giấy A4 với những chi tiết đã chọn to hơn
trước gấp 4 lần. Việc phóng to như vậy thường làm giảm chi tiết và
chất lượng của ảnh. Việc làm này cũng có thể thực hiện trên máy tính
mà không cần tính năng zoom số của máy ảnh. Vì vậy, khi mua máy ảnh,
người ta thường quan tâm tới tỷ lệ phóng to quang học hơn là phóng to
kỹ thuật số. Ghi chú: Cũng như trên, các thuật ngữ phóng to thu nhỏ ở
đây được dùng chủ yếu để giải thích, trên thực tế ở Việt Nam, phần lớn
mọi người đều sử dụng từ vay mượn là “zoom” với các cách nói như
“dum” ra, “dum” vào hay “dum” to, “dum” nhỏ.
Chế độ căn nét (focus mode):
Chế
độ điều chỉnh ống kinh để căn nét cho hình ảnh. Thông thường có hai
loại là căn nét thủ công bằng tay (manual focus) hoặc căn nét tự động
(auto focus). Ở chế độ căn nét tự động, nhiều hãng máy ảnh còn phân biệt
giữa căn nét cho các vật đứng im và các vật chuyển động.
Chiều sâu ảnh trường (depth of field – DOF):
Đối
với một số trường hợp, do sử dụng ống kính hay khoảng cách giữa các
đối tượng được chụp, khi căn nét một đối tượng thì các đối tượng khác ở
trước và sau đối tượng căn nét bị nhòe đi, những trường hợp như vậy sẽ
cho hình ảnh gọi là nông về chiều sâu của ảnh; trong những trường hợp
khác, các đối tượng trước và sau đối tượng được căn nét vẫn tương đối
nét hoặc thậm chí có độ nét ngang bằng với đối tượng căn nét. Trong
các trường hợp trình bày sau này, ảnh có chiều sâu lớn hơn. Hiệu ứng
này được tạo ra bởi nhiều yếu tố khác nhau bao gồm tiêu cự (focal
lengh), khẩu độ mở ống kính (f-number), cự ly chụp (khoảng cách từ máy
ảnh tới đối tượng chụp). Khẩu độ mở càng lớn, tiêu cự càng dài và cự
ly chụp càng ngắn thì chiều sâu của ảnh càng giảm, và ngược lại. So
với ống kính tiêu chuẩn (normal lens), ống góc rộng cho chiều sâu ảnh
lớn hơn nếu đặt ở khẩu độ mở (f-number) như nhau, còn các ống tele sẽ
cho chiều sâu nông hơn.
Đây là một khái niệm quan trọng trong
nhiếp ảnh, nhất là trong việc tạo tính nghệ thuật cho một bức ảnh. Một
cách đơn giản hơn để hiểu khái niệm này là khoảng cách giữa các đối
tượng (đối tượng lấy nét, đối tượng trước và sau đối tượng lấy nét) có
độ nét chấp nhận được trong một bức ảnh. Khoảng cách này càng xa thì
ảnh càng có chiều sâu. Ảnh phong cảnh thường có chiều sâu lớn để mọi
vật đều nét (nhìn rõ chi tiết), ảnh chân dung thường có chiều sâu nông
để người xem tập trung vào người được chụp (hay khuôn mặt) hơn là các
cảnh vật xung quanh (thường nhòe đi để không gây chú ý cho người
xem).
Bô-kê (bokeh / boke):
Bô-kê
là một thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Nhật có nghĩa là “nhòa mờ”
(blur), được sử dụng trong nhiếp ảnh ngày nay để mô tả hiện tượng nhòa
mờ nhưng mịn của vùng xung quanh điểm được căn nét trong khuôn hình một
bức ảnh có chiều sâu ảnh trường nông do hiệu ứng của ống kính tạo ra.
Bô-kê tạo cho người xem cảm giác mịn màng dễ chịu ở vùng xung quanh
điểm lấy nét và thường được sử dụng để tạo tính nghệ thuật trong nhiếp
ảnh. Đây là khái niệm khó đo lường và thường được đánh giá bằng mắt
thường. Chất lượng bô-kê có thể được đánh giá bằng các vòng tròn ánh
sáng nhòa mờ, mịn và phân bố ánh sáng đều (hơn là chỉ tập trung sáng ở
đường viền của mỗi hình tròn) xung quanh các điểm sáng ngoài vùng nét
trong bức ảnh. Các ống kính có nhiều mảnh thép tạo lỗ lọt sáng
(apature) hoặc các mảnh này cắt cong sẽ tạo được hiệu ứng các hình tròn
mờ mịn tốt hơn và cho chất lượng bô-kê đẹp hơn. Các ống kính có khẩu
độ mở lớn hơn (f-number nhỏ hơn) có khả năng giảm chiều sâu và tạo
bô-kê đẹp hơn.
ISO (International Organization for Standardization):
Đơn
vị tính độ nhạy của phim hay của bộ cảm biến nhận ánh sáng ở máy ảnh
số do Tổ chức tiêu chuẩn thế giới qui chuẩn. Độ nhạy ISO ở các máy ảnh
số thường được tính từ 80 tới 25000 và càng ngày càng cao hơn. Đối với
phim nhựa truyền thống, độ nhạy được qui định ở loại phim, ví dụ phim
ISO100, ISO400; đối với máy ảnh số, có thể thay đổi ISO thông qua chức
năng điều chỉnh ISO trên máy. Máy ảnh loại tốt cho phép điều chỉnh
ISO cao hơn. Độ nhạy ISO càng lớn cho phép giảm thời gian lộ sáng
(phơi sáng) – tức là tăng tốc độ cửa chập (shutter speed). Tuy nhiên,
ISO càng lớn thường làm cho ảnh càng bị nhiễu (noise) nhiều hơn, khi
phóng to bị rạn và sần. Trong điều kiện ảnh sáng tốt, nên để ISO thấp
nhất có thể. Các cách tính khác đối với phim nhựa bao gồm ASA
(American Standards Association – Hội tiêu chuẩn Hòa Kỳ) và DIN
(Deutsches Institut für Normung – Viện tiêu chuẩn Đức).
VinaCamera.com
2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn đã ghé thăm Già :)